Thứ Sáu, 16 tháng 4, 2010

, , ,

Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ

Share
Trong thời gian gần đây trên kênh truyền hình HTV7 của đài truyền hình tp.HCM có chiếu bộ phim "Vó ngựa trời Nam", là một bộ phim lịch sử về cuộc đời và sự nghiệp của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ mà theo đánh giá chủ quan của tôi thì đó là một trong những bộ phim lịch sử của VN thu hút được sự chú ý của người xem không chỉ về tính chất lịch sử của nó mà còn về tính chất nghệ thuật của nó như dàn dựng bối cánh, diễn xuất, võ thuật... mà các bạn có thể đọc thấy khá nhiều thông tin trên Internet..!

Qua đây mình cũng muốn chia sẻ với các bạn một số thông tin về Huỳnh Văn Nghệ về cuộc đời và một số bài thơ của ông:
 Tiểu sử: Xem trên Wikipedia 
Một sô bài thơ:


Tiêu biểu nhất và được lưu truyền nhiều nhất là bài "Nhớ Bắc" được viết năm 1946 ở chiến khu Đ mà những vần thơ trên là lời thơ cảm hứng cho bộ phim "Vó ngựa trời Nam"

Nhớ Bắc
Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xem nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng.

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.


Trong một ghi chép khác, tác giả ghi bài thơ là “Tiễn bạn về Bắc”, viết ở Sài Gòn năm 1940, có thêm một đoạn:

Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm từ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta.


Và  những bài thơ thể hiện nỗi xót và chí khí của nam nhi trong buổi tang thương, loạn ly của quê nhà:

Đám ma nghèo 
Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh!
Bốn người khiêng lắt lẻo chiếc quan tài
Người vợ kêu trời khan cả giọng
Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi.

Sau góa phụ còn hai con trẻ dại
Dắt díu nhau, nheo nhóc khóc không thôi.
Và sau nữa... không còn ai nữa hết.
Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi.
[* Biên Hòa 1938*]

Lời chim
Hỡi Thượng đế, Người ban cho đôi cánh,
Con mừng thầm tưởng tránh khỏi trần ai.
Cho ăn trái, tưởng khỏi phiền tranh cạnh
Với lòng tham vô tận của người đời.

Con cứ tưởng: phước trời riêng con hưởng
Khi mới bay chập chững dưới chân đồi.
Con cứ tưởng: khi tập tành hát xướng
Rằng đời chim chỉ để hát ca thôi.

Nhưng Đông đến, mùa trời khe khắt quá,
Lá hoa rơi trơ trọi nhánh cây ngàn.
Mải mê hát khi cây còn quả đỏ
Nên bao lần đói lạnh lúc Đông sang!

Người ta lại theo con lên núi đỏ.
Vào rừng xanh phá ổ, đốn cây cao
Họ giành giựt cùng con từng trái nhỏ,
Để đem về làm vui miệng cho nhau.

Chịu sao nổi nỗi tham tàn nhân loại,
Cánh chim non dễ bay thấu tận trời,
Trí chim kém dễ gì qua cung bẫy,
Lời đau thương nào thấu được tai ai.

Đã bao phen con ước mong bay thẳng
Đến thiên cung xin đổi số phần con,
Xin Thượng Đế cho chim ăn mây trắng
Và cho chim lót ổ giữa trăng tròn.

Nhưng kiếp này vì yêu thương đã lỡ
Nên con đành vương nặng nợ trần ai.
Chung số phận cùng con bao thi sĩ
Mộng đài trăng gác lại để thương người.
[*Sài Gòn 1945*]

Lịch sử quê hương

Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc
Chán ghét vua quan áp bức.
Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi.
Đi vào Nam làm lại cuộc đời
Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc.

Có con sông cũng từ hướng Bắc
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao.
Người gặp sông
Ngụm nước mát ngọt ngào
Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn
Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng
Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng
Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng.

Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương
Lột da nai
Lửa cơm chiều bốc khói
Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới.

Bao ngày gian khổ
Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng
Mồ hôi, nước mắt, tay sưng
Mới có được góc trời Nam tươi mát
Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật
Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường,
Hồi chuông chùa êm gõ sườn non
Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến.
Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én.
Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang.
Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn.
[*Bắc Sơn 1954 *]

Ngoài ra ông còn biết đến với những vần thơ chan chứa tình cảm đối với những người mà ông yêu quý như trong một bài thơ ông viết tặng vợ:

Trả lời thơ Lan
“... Không đâu em, lòng anh nào đã chết
Và nguồn thơ nào đã cạn bao giờ.
Anh còn đây, còn yêu mến ước mơ
Và thương nhớ biết bao giờ phai nhạt.

Nguồn máu đỏ trong tim còn rào rạt
Hình ảnh em đượm mát góc trời quê.
Cũng bao đêm anh mong thấy anh về...
Nhưng tỉnh dậy, trăng thề đành lỗi hẹn.

Ôi mong đợi héo tàn bao bóng nến
Nhớ thương anh mòn mỏi cột lều tranh
Có bao giờ tình anh nỡ phụ mình!
Nhưng em hỡi! Chờ thái bình thiên hạ.

Em vẫn rõ anh là thân chiến mã
Nợ kiếm cung oằn oại gánh yên cương.
Tiếng non sông giục bước ra sa trường...”
[*Sài Gòn 1944*]

 
Ngoài  ra, các bạn có thể xem tuyển tập một số bài thơ của ông (khoảng 40 bài) trên trang web của VN Thư Quán

0 nhận xét:

Đăng nhận xét